Sự kiện. tháng 12/2022
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Những nhóm chính sách quan trọng cần tập trung thể chế nhằm tháo gỡ điểm nghẽn, tạo ra đột phá cho phát triển văn hóa

Tại Hội thảo Văn hóa 2022, trên cơ sở nhìn nhận, phân tích thực trạng, nhận diện những cơ hội và thách thức, Hội thảo đã nhấn mạnh quan điểm "thể chế, chính sách phải kiến tạo để chấn hưng, phát triển văn hóa và thúc đẩy hội nhập quốc tế", đồng thời thống nhất về nhóm chính sách lớn, quan trọng, cần được tập trung nghiên cứu, thể chế hóa để tháo gỡ các điểm nghẽn, tạo sự đột phá cho phát triển văn hóa.

Các chính sách về phát triển văn hóa có tác động tương hỗ, bổ sung cho nhau, cần được triển khai một cách đồng bộ để đạt hiệu quả cao nhất. Qua tổng hợp cho thấy trên cơ sở hệ thống hóa các chủ trương của Đảng, các tham luận, các ý kiến tại Hội thảo Văn hóa  đã đề cập đến 9 nhóm chính sách lớn, quan trọng, cần được tập trung nghiên cứu, thể chế hóa để tháo gỡ các điểm nghẽn, tạo sự đột phá cho phát triển văn hóa.

Một là, chính sách phát triển con người Việt Nam toàn diện. Con người là trung tâm, là chủ thể, là nguồn lực chủ yếu, là mục tiêu của sự phát triển. Trong thời gian tới, cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện đồng bộ, bảo đảm tất cả chính sách đều hướng tới mục tiêu cao nhất là phát triển con người Việt Nam toàn diện, mang đầy đủ đặc trưng của con người xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy hình thành và lan tỏa các giá trị chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới.

Trong đó, cần quan tâm hơn tới các chính sách về bồi dưỡng thế hệ trẻ; chăm lo, hỗ trợ các đối tượng, lực lượng đặc thù, dễ bị tổn thương; đề cao tính tiên phong, gương mẫu trong văn hóa ứng xử của người lãnh đạo, cán bộ, đảng viên; khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam.

Hai là, chính sách xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh với các trọng tâm là xây dựng đời sống văn hóa; phát triển và quản lý hệ thống hạ tầng, thiết chế và không gian văn hóa đồng bộ, hiệu quả.

Đời sống văn hóa là bộ phận quan trọng cấu thành nên đời sống xã hội, phản ánh trình độ phát triển của một cộng đồng, một quốc gia, dân tộc gắn với tiến trình lịch sử xã hội và văn hóa. Chính sách phát triển đời sống văn hóa không chỉ đáp ứng nhu cầu tinh thần của đời sống xã hội, mà còn có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Do đó, cần tập trung xây dựng, hoàn thiện các bộ quy tắc ứng xử văn hoá, nhất là trên không gian mạng; tiếp tục xây dựng nếp sống văn hóa, xây dựng đô thị và nông thôn văn minh, từng bước xóa bỏ các tập tục, tập quán lạc hậu. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền và các giai tầng xã hội. Phát huy tối đa khát vọng cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam ở trong và ngoài nước.

Hệ thống hạ tầng, thiết chế và không gian văn hóa có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của nhân dân, có ý nghĩa quyết định sự thành công trong xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam; phản ánh diện mạo văn hóa của cộng đồng, quốc gia, chất lượng cuộc sống, nhu cầu hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần của nhân dân cũng như tài nghệ sáng tạo của chủ thể văn hóa. Cần hoàn thiện chính sách để huy động các nguồn lực, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, xây dựng, hoàn thiện, nâng cao chất lượng, hiệu quả các thiết chế văn hóa chủ đạo, các không gian sáng tạo, đặc biệt là các công trình, thiết chế văn hóa cấp quốc gia, mang tầm vóc thời đại Hồ Chí Minh.

Ba là, chính sách nâng cao hiệu quả thông tin tuyên truyền và giáo dục văn hóa. Để thực hiện thành công mục tiêu về phát triển văn hóa, con người Việt Nam, một trong các yêu cầu tiên quyết là phải nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương và toàn xã hội. Cần tập trung hoàn thiện các chính sách để đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam; đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các sản phẩm truyền thông, thúc đẩy quảng bá, lan tỏa giá trị văn hóa truyền thống, tinh hoa văn hóa thế giới đến đông đảo công chúng trong và ngoài nước; khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, khát vọng cống hiến xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát triển các kênh thông tin đại chúng và truyền thông mới, nhất là trên nền tảng số. Có chính sách đầu tư để phát triển phát thanh, truyền hình trở thành ngành công nghiệp văn hóa mũi nhọn; hình thành các cơ sở đào tạo, cơ quan truyền thông mạnh, có năng lực cạnh tranh và ảnh hưởng ở tầm khu vực, quốc tế.

Bốn là, chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc. Di sản văn hóa là tài sản vô giá của dân tộc, là nguồn lực nội sinh quan trọng cho phát triển bền vững đất nước, cần được bảo tồn một cách nghiêm ngặt. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Đó là một tài sản vô cùng quý báu do tổ tiên, cha ông ta mấy nghìn năm để lại, không phải nơi nào cũng có được; chúng ta có trách nhiệm phải giữ gìn, trân trọng và phát huy”. Chính sách bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị di sản cần được tiếp tục hoàn thiện để xử lý hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển, giữa truyền thống và hiện đại, giữa quốc gia và quốc tế, đặc biệt là những vấn đề liên quan tới quyền văn hóa, quyền chủ thể, quyền con người; chú ý đến tính toàn diện, tính đặc thù vùng, miền, nhất là đối với di sản văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số, di sản tại khu vực đô thị, nông thôn, miền núi…

Cần xây dựng, hoàn thiện chính sách về ghi danh, bảo quản, tu bổ, phục hồi, trưng bày, giới thiệu di sản văn hóa; tăng cường đầu tư cho công tác bảo tồn, phát huy các di tích lịch sử - văn hóa, gắn với phát triển bền vững du lịch, công nghiệp văn hóa và các ngành kinh tế khác; phát huy hiệu quả tài sản, tài nguyên văn hóa.

Năm là, chính sách thúc đẩy sự phát triển văn học, nghệ thuật. Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn, trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam.

Để có những tác phẩm hay, chất lượng, xứng đáng với truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc và những thành quả của công cuộc đổi mới, đáp ứng tốt nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ của công chúng, trong thời gian tới, cần bổ sung chính sách riêng biệt cho hoạt động sáng tạo của các ngành nghệ thuật chuyên biệt còn thiếu như sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm…; bổ sung các chính sách mới về hỗ trợ, quản lý hoạt động tuyên truyền, phổ biến tác phẩm văn học, nghệ thuật trên không gian mạng; đào tạo, bồi dưỡng, phát huy tài năng trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, nhất là những tài năng trẻ; bảo vệ quyền tác giả và các quyền liên quan; bảo đảm môi trường tự do, dân chủ, lành mạnh, khoa học để khơi nguồn cảm hứng, sáng tạo.

Phát triển các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật có giá trị đỉnh cao về nghệ thuật và tư tưởng, phấn đấu có các tác phẩm văn học, nghệ thuật xứng tầm, hướng tới kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và 100 năm ngày thành lập Ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Sáu là, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa. Phát triển công nghiệp văn hóa là một định hướng chiến lược, góp phần chuyển hóa hiệu quả nguồn tài nguyên văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa; là chìa khóa để cơ cấu lại nền kinh tế dựa trên thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế tri thức, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng hiệu quả, bền vững; đang là xu thế lớn và quan trọng trong chính sách văn hóa của nhiều nước trên thế giới.

Cần tập trung nghiên cứu, hoàn thiện 4 nhóm chính sách để tạo đột phá cho phát triển bền vững ngành công nghiệp văn hóa: Thứ nhất, chính sách chuyển hóa tài nguyên văn hóa thành các sản phẩm và dịch vụ văn hóa có khả năng cạnh tranh mạnh trên thị trường văn hóa. Thứ hai, chính sách hợp tác công tư để nâng cao năng lực khai thác kết cấu hạ tầng và huy động tài chính trên thị trường văn hóa. Thứ ba, chính sách khuyến khích, bảo vệ nội dung sáng tạo, quyền tác giả và các quyền liên quan. Thứ tư, chính sách ưu đãi, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, một số sản phẩm văn hóa chủ lực, có tiềm năng, lợi thế; thúc đẩy phát triển các loại hình nghệ thuật đương đại.

Bảy là, chính sách đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trong lĩnh vực văn hóa. Đây là giải pháp quan trọng, góp phần phát triển văn hóa nhanh, bền vững. Tập trung xây dựng, hoàn thiện các chính sách đầu tư cho nghiên cứu khoa học, ứng dụng và phát triển công nghệ trong lĩnh vực văn hoá, thúc đẩy nhanh hơn quá trình chuyển đổi số, hoàn thiện hạ tầng số, các nền tảng số dùng chung cho ngành văn hóa; đầu tư phát triển một số viện nghiên cứu, trường đại học về văn hóa, nghệ thuật theo mô hình tiên tiến của thế giới; nâng cao chất lượng nghiên cứu và đào tạo khoa học quản lý văn hóa tại các viện nghiên cứu và các trường đại học về văn hóa, nghệ thuật; tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học về văn hóa, nghệ thuật; tôn vinh, đãi ngộ đội ngũ cán bộ khoa học, chuyên gia đầu ngành về văn hóa, nghệ thuật; huy động trí tuệ, tâm huyết của các nhà khoa học có kinh nghiệm tiếp tục nghiên cứu khoa học, tham gia đào tạo, hướng dẫn cán bộ trẻ.

Tám là, chính sách phát triển nguồn nhân lực văn hóa. Trong các loại nguồn lực phát triển văn hóa, nguồn lực con người có ý nghĩa quan trọng nhất, là trung tâm của quá trình phát triển văn hóa. Phát triển nguồn nhân lực văn hóa là "khâu đột phá" trong công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Việc hoàn thiện đồng bộ hệ thống chính sách nhằm tạo ra các đột phá để phát triển nguồn nhân lực văn hóa, nghệ thuật cả về chất lượng, số lượng, với cơ cấu hợp lý là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng.

Cần sớm xây dựng chiến lược và cơ chế, chính sách đầu tư để phát triển toàn diện cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa, nhất là văn học, nghệ thuật, các ngành công nghiệp văn hóa; kết hợp đào tạo trong nước và ngoài nước. Có chính sách đặc thù đầu tư phát triển các ngành đào tạo trong lĩnh vực văn hóa, nhất là những môn nghệ thuật truyền thống như: kịch hát dân tộc, tuồng, chèo, cải lương, dân ca các dân tộc ít người... Bảo đảm cơ chế, chính sách thuận lợi cho hợp tác đào tạo trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Bổ sung, hoàn thiện chính sách sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh một cách xứng đáng cả về vật chất và tinh thần đối với cống hiến thực tế của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, nghệ nhân, cán bộ ngành văn hóa.

Chín là, chính sách hội nhập quốc tế, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, văn hóa được xem là sức mạnh mềm của mỗi quốc gia. Chính nền văn hóa truyền thống hàng ngàn năm lịch sử, đa dạng, phong phú, giàu bản sắc, luôn tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại đã góp phần làm nên sức mạnh của dân tộc ta, làm cho tiềm lực, vị thế và uy tín của Việt Nam ngày càng tăng trên trường quốc tế. Do đó, cần tập trung hoàn thiện các chính sách để thúc đẩy hội nhập quốc tế về văn hóa, phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, khẳng định trường phái đối ngoại và ngoại giao “cây tre Việt Nam”.

Xây dựng cơ chế, chính sách để phát triển văn hóa đối ngoại; gắn kết ngoại giao văn hóa với ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế; thúc đẩy quan hệ, hợp tác, xây dựng lòng tin với các quốc gia, tổ chức khu vực và quốc tế; khuyến khích hợp tác, hội nhập sâu, rộng trong các lĩnh vực về văn hóa tại các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế nhằm đưa tinh hoa văn hóa của Việt Nam ra thế giới, góp phần bổ sung tinh hoa văn hóa nhân loại; tăng cường quảng bá các giá trị văn hóa, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, nhất là dạy tiếng Việt, quảng bá nghệ thuật quốc gia, xuất khẩu các sản phẩm văn hóa ra nước ngoài, thúc đẩy kết hợp ngoại giao văn hóa với ngoại giao công chúng, ngoại giao số; vận động, đa dạng hóa và bảo tồn, phát huy các di sản, danh hiệu quốc tế của Việt Nam.

Hoàn thiện chính sách khuyến khích tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới dựa trên nền tảng văn hóa dân tộc làm gốc; đồng thời, ngăn ngừa những tác động tiêu cực, bảo vệ giá trị văn hóa, nền tảng tư tưởng của Đảng, thành tựu của đất nước.

Bảo Yến

Tác giả: Bảo Yến